Tuesday, May 24, 2016

Câu 10: Vai trò doanh nghiệp và quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp



Câu 10: Vai trò doanh nghiệp và quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp

1.1. Vai trò của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là thực thể được sinh ra và phát triển trong nền kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp không tồn tại như một khối vật chất mà có tổ chức và hoạt động thường xuyên. Khác với các tổ chức phi lợi nhuận, doanh nghiệp có tần suất hoạt động cao trong môi trường cạnh tranh gay gắt, tạo ra những giá trị đích thực cho nền kinh tế - xã hội. Bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào kém hiệu quả đều có thể làm cho doanh nghiệp bị đào thải khỏi thị trường. Do đó, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp càng trở nên có ý nghĩa và doanh nghiệp có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế - xã hội.

1.1.1. Đối với nền kinh tế
Nền kinh tế quốc dân được cấu thành bởi nhiều yếu tố, trong đó cơ bản là: ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, hệ thống doanh nghiệp, nguồn tài nguyên thiên nhiên và cơ sở vật chất công cộng do Nhà nước xây dựng. Trong các yếu tố cơ bản trên đây, doanh nghiệp là tổ chức duy nhất có hoạt động sản xuất kinh doanh, có khả năng tăng thu. Không ở trạng thái tĩnh, bị động, doanh nghiệp sinh ra để chủ động hoạt động kinh doanh vì lợi nhuận và đóng góp nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bổ sung vào nguồn dự trữ quốc gia. Doanh nghiệp cũng là nơi duy nhất có đủ điều kiện và phương tiện để khai thác tài nguyên thiên nhiên, sản xuất ra hàng hoá, nâng cao giá trị của tài nguyên thiên nhiên.
Doanh nghiệp không phải là sản phẩm riêng có của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, cả về lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng, chỉ có trong điều kiện kinh tế thị trường thì doanh nghiệp mới có thể cạnh tranh tự do và phát triển đúng với bản chất của nó. Thực tiễn phát triển kinh tế thế giới đã kiểm chứng sự phù hợp của mô hình doanh nghiệp đối với nền kinh tế thị trường chứ không phải ở quy mô cá nhân, hộ gia đình hay toàn xã hội. Vì vậy chỉ có thông qua doanh nghiệp, các nguồn lực đầu tư mới được phát huy. Doanh nghiệp thực sự là mô hình phù hợp cho việc phát triển kinh tế đất nước, là nơi có khả năng thu hút được nhiều vốn đầu tư của xã hội. Việc doanh nghiệp tích cực tăng đầu tư vào đổi mới tài sản cố định, đổi mới thiết bị kỹ thuật công nghệ sẽ tạo động lực cho sự tăng trưởng của doanh nghiệp, quyết định sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế không chỉ tạo ra sự phát triển cho từng thành phần kinh tế mà còn tạo ra tăng trưởng cho nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, mục tiêu lợi nhuận đã thúc đẩy doanh nghiệp cung ứng dịch vụ, kinh doanh trong tất cả các ngành nghề Nhà nước không cấm, tìm đến những vùng nguyên liệu, thị trường lao động có lợi cho kinh doanh. Những hoạt động của doanh nghiệp đặt trong sự quản lý của Nhà nước sẽ tạo ra hiệu quả trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân, bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần và cơ cấu vùng kinh tế.

1.1.2. Đối với xã hội
Nguồn lực cơ bản không tách rời sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp là lực lượng lao động. Tuỳ thuộc vào tính chất ngành nghề sản xuất kinh doanh mà yêu cầu về số lượng và chất lượng lao động của các doanh nghiệp là khác nhau. Doanh nghiệp là nơi tạo ra việc làm cho mọi đối tượng lao động ở những trình độ và điều kiện sức lao động khác nhau.
Trong chính sách phát triển kinh tế, Nhà nước áp dụng các chính sách khuyến khích đầu tư theo vùng miền. Nếu chính sách đó đủ thuyết phục thì doanh nghiệp sẽ đầu tư sản xuất kinh doanh ở cả những vùng miền xa xôi. Sự có mặt của các doanh nghiệp trên các vùng miền khác nhau không chỉ tạo việc làm mà còn tăng thu nhập cho người dân, góp phần xoá đói, giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng miền của đất nước.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có chức năng chủ yếu là sản xuất kinh doanh. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp gắn liền với việc sử dụng lao động. Trong chiến lược kinh doanh của mình, doanh nghiệp có thể thực hiện đào tạo trước hoặc trong khi sử dụng lao động với những loại hình đào tạo ngắn hạn, dài hạn khác nhau. Sự ổn định về số lượng, đảm bảo về chất lượng lao động vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu của phát triển kinh doanh bền vững. Trong nền kinh tế tự do cạnh tranh, việc thu hút và giữ chân người lao động là một trong những chiến lược của doanh nghiệp. Thông qua việc đào tạo, áp dụng các chính sách lương thưởng hợp lý để khơi dậy và phát huy sự sáng tạo, tính trách nhiệm của người lao động trong doanh nghiệp. Vì thế doanh nghiệp còn tạo môi trường cho người lao động rèn luyện và trưởng thành, tạo ra những giá trị cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Cùng với các gia đình, hộ kinh doanh, doanh nghiệp là nơi sản xuất, cung ứng các hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Thông qua quan hệ thương mại, doanh nghiệp có thể thúc đẩy các quốc gia tham gia mở rộng quan hệ quốc tế.
Kinh tế thị trường đi kèm với các quy luật của nó, tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sức ép cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành rẻ. Vì vậy, doanh nghiệp luôn có xu hướng sử dụng và cải tiến công nghệ, tạo ra sự ảnh hưởng tích cực về tiến bộ khoa học - công nghệ đối với kinh tế - xã hội. Kinh tế thị trường và hội nhập làm thay đổi quan niệm về cung - cầu hàng hoá, doanh nghiệp không dừng lại ở những nhu cầu lối mòn, hàng hoá quen thuộc mà phải luôn sáng tạo ra những hàng hoá, dịch vụ để dẫn dắt, lôi kéo nhu cầu tiêu dùng bằng tính ứng dụng và giá trị sử dụng vượt trội. Vì thế, doanh nghiệp có khả năng làm thay đổi thói quen tiêu dùng, mang lại những văn minh cho con người và xã hội.

1.2. Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
1.2.1 Nhà nước quản lý, hướng dẫn doanh nghiệp hoạt động phù hợp với lợi ích của giai cấp mà Nhà nước là đại diện
C.Mác đã chỉ ra rằng: bất cứ một lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên một quy mô khá lớn đều ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chắc năng chung. Do đó, quản lý là thuộc tính tự nhiên, tất yếu khách quan của mọi quá trình lao động xã hội, của bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào. Nếu không thực hiện các chức năng và nhiệm vụ quản lý thì không thể thực hiện được cá quá trình hợp tác lao động sản xuất, không khai thác, sử dụng được các yếu tố của lao động sản xuất có hiệu quả.
Tồn tại với tư cách là một tổ chức kinh tế, doanh nghiệp cũng cần đến quản lý và chứa đựng những sáng tạo trong quản lý. Hoạt động quản lý xuất phát từ mục tiêu, lợi ích cục bộ của doanh nghiệp. Quản lý của mỗi doanh nghiệp vì thế chứa đựng những nguy cơ đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, lợi ích của giai cấp mà Nhà nước là đại diện. Để bảo vệ lợi ích này, Nhà nước cần phải quản lý các doanh nghiệp. Quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhằm hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động của mỗi doanh nghiệp phải đặt trong lợi ích chung của cộng đồng.

1.2.2. Nhà nước quản lý doanh nghiệp đê hướng hoạt động của doanh nghiệp phù hợp với lợi ích của Nhà nước
Trong khi quản lý, hướng dẫn hoạt động của doanh nghiệp phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng, lợi ích của giai cấp mà Nhà nước là đại diện, Nhà nước đồng thời cũng tạo ra những đảm bảo cho lợi ích của mình.
Khi tiến hành các hoạt động quản lý, trước hết Nhà nước cần đến các nguồn lực tài chính để chi tiêu cho bộ máy quản lý, xây dựng chính sách và thực thi các chính sách. Một nguồn thu đủ để chi và tích luỹ của Nhà nước chỉ có thể đạt được chủ yếu bằng đóng góp từ thuế của doanh nghiệp. Hoạt động quản lý của Nhà nước nhằm duy trì một xã hội ổn định để phát triển phụ thuộc vào cách thức Nhà nước quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp.
1.2.3. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp xuất phát từ chính yêu cầu của các doanh nghiệp
Doanh nghiệp ra đời do yêu cầu của việc tổ chức sản xuất kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Theo nguyên tắc thị trường, doanh nghiệp chỉ phát triển trong điều kiện được đảm bảo tự do kinh doanh. Khi tiến hành các hoạt động kinh doanh vì mục tiêu riêng, quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp này có thể tạo những lực cản, vi phạm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp khác. Vì thế, quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp chỉ có được khi Nhà nước có cơ chế đảm bảo cho họ thực hiện các quyền đó.
Để thực hiện quyền tự do kinh doanh, doanh nghiệp cần đến Nhà nước với vai trò của người đại diện cho lợi ích chung, công bằng, khách quan từ việc xây dựng thể chế và tổ chức hoạt thực hiện. Chỉ Nhà nước mới đủ khả năng và điều kiện để xây dựng pháp luật, toà án, nhà tù và những điều kiện khác đảm bảo lợi ích cho mọi doanh nghiệp một cách công bằng.
Các nhà quản lý doanh nghiệp thường điều hành hoạt động kinh doanh trong phạm vi nhỏ hẹp ở lĩnh vực mà mình kinh doanh. Vì thế, chỉ có khả năng đánh giá thị trường trong phạm vi ngành nghề mà mình đã lựa chọn. Trong kinh doanh, yêu cầu về dự báo thông tin thị trường để doanh nghiệp phát triển bền vũng cần đến những thông tin chính xác về độ rủi ro và thị trường tiềm năng. Chỉ có Nhà nước, với tư cách là nhà hoạch định chính sách, với tầm nhìn chiến lược mới có khả năng phân tích, đánh giá về sự vận động của toàn hệ thống kinh tế và cung cấp những thông tin tin cậy cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, do nguồn lực kinh tế, khả năng tự tạo lập những điều kiện, môi trường cho hoạt động kinh doanh hạn chế; doanh nghiệp rất cần đến sự hỗ trợ từ phía Nhà nước về điều kiện kinh doanh như xây dựng cơ sở hạ tầng và hệ thống thị trường đồng bộ để phát triển.

1.2.4. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế luôn tồn tại nhiều quan hệ với những mâu thuẫn cần được Nhà nước giải quyết đê phát triên
Sự tồn tại của doanh nghiệp gắn liền với việc tham gia vào nhiều mối quan hệ khác nhau như quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước; giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp; giữa doanh nghiệp với các tổ chức, cá nhân; giữa doanh nghiệp với người lao động hay giữa doanh nghiệp với cộng đồng xã hội. Quan hệ ấy có thể phù hợp, hiệu quả hoặc phát sinh những vấn đề cần giải quyết để phát triển. Doanh nghiệp cần đến vai trò của Nhà nước để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Là đại diện cho lợi ích chung, Nhà nước phải tạo hành lang pháp lý và cơ chế điều hành đảm bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp, người lao động và các tổ chức khác.

1.3. Chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
Chức năng của Nhà nước là những phương diện hoạt động cơ bản của Nhà nước trên các mặt đối nội, đối ngoại, bao quát toàn bộ đời sống kinh tế, xã hội. Chức năng của Nhà nước được quy định bởi bản chất của Nhà nước và những đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. Chức năng của Nhà nước thể hiện nhiệm vụ, công dụng, vai trò của Nhà nước khi gắn vào hoạt động cụ thể với những đối tượng quản lý cụ thể.

1.3.1. Chức năng định hướng
Trong mọi Nhà nước, các hoạt động quản lý luôn gắn với mục tiêu đã được định trước. Mục tiêu chiến lược của Nhà nước sẽ chi phối các mục tiêu ở những giai đoạn khác nhau. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp cũng cần phải hướng đến mục tiêu chung là tăng trưởng và ổn định kinh tế, gắn với giải quyết tốt công bằng và phúc lợi xã hội. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được khi Nhà nước hướng dẫn để doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và phù hợp với định hướng chung.
Nhà nước thực hiện chức năng định hướng một mặt để hướng dẫn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp phát triển; mặt khác sự định hướng đó còn tạo ra một hệ thống doanh nghiệp phát triển trong sự phù hợp với các mục tiêu cơ bản và lâu dài của Nhà nước.
Khác với nền kinh tế kế hoạch, trong nền kinh tế thị trường, chức năng định hướng của Nhà nước chủ yếu sử dụng phương pháp tác động gián tiếp thông qua các chiến lược, quy hoạch, chính sách, kế hoạch, thông tin và các nguồn lực của Nhà nước. Phương pháp tác động gián tiếp vừa thể hiện sự tôn trọng các quy luật của thị trường, đảm bảo tính tự chủ cho doanh nghiệp, đồng thời cũng đảm bảo đạt được mục tiêu chung.

1.3.2. Chức năng tạo lập môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp
Các Nhà nước sẽ không đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế nếu chỉ dừng lại ở việc thừa nhận tự do kinh doanh. Việc Nhà nước thừa nhận kinh tế thị trường với sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế có khẳ năng đánh thức nhiều nhà đầu tư. Tuy nhiên, các nhà đầu tư chỉ thực sự an tâm kinh doanh khi Nhà nước bảo đảm một môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng và những bảo đảm cho tài sản của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá. Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng môi trường chính trị ổn định; pháp luật đầy đủ, thống nhất; môi trường kinh tế, xã hội và hệ thống kết cấu hạ tầng tốt.

1.3.3. Chức năng điều tiết thị trường
Kinh tế thị trường với những quy luật vận động vốn có của nó một mặt tạo ra sự năng động sáng tạo cho doanh nghiệp, mặt khác nó luôn có nguy cơ dư thừa hay thiếu hụt hàng hoá trên thị trường, tạo ra những cơn sốc về giá, narh hưởng đến người tiêu dụng, doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân.
Vì thế, để điều tiết thị trường cho doanh nghiệp phát triển, Nhà nước sử dụng hàng loạt các chính sách đòn bẩy kinh tế, các chính sách tài chính, chính sách thuế. Trường 
hợp doanh nghiệp sản xuất ra hàng hoá nhiều hơn sức mua, cung vượt quá cầu, Nhà nước phải thực hiện biện pháp khai thông dòng chảy sản xuất kinh doanh ằng các hình thức kích cầu cho vay tiêu dung, hỗ trợ lãi suất vốn vay kinh doanh cho doanh nghiệp, mua vào kho dự trữ quốc gia.. Nếu sức tiêu thụ tăng mạnh, nguồn cung khan hiếm, Nhà nước cần áp dụng các chính sách bình ổn giá, sử dụng nguồn dự trữ hàng hoá để điều tiết , sử dụng các doanh nghiệp nhà nước để sản xuất các hàng hoá, cung cấp các dịch vụ trên thị trường đang thiếu.

1.3.4. Chức năng thanh tra, kiêm tra, xử lý vi phạm
Doanh nghiệp tồn tại như một thực thể sống, có sự ra đời, phát triển và ra đi khỏi thị trường khi giải thể, phá sản. trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, doanh nghiệp hoạt động trong các mối quan hệ với nhiều chủ thể là các đối tác khác nhau. Đây cũng là giai đoạn doanh nghiệp cần được kiểm tra, thanh tra để phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm.
Thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, tạo khả năng ngăn ngừa vi phạm Kết quả thanh tra, kiểm tra có thể phát hiện các nguồn lực tiềm năng, phát hiện những sai lệch để kịp thời hoàn thiện và định hướng. Nói cách khác, thông qua thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước có thể nhận được sự phản hồi của chính sách, kiểm ra tính khả thi của các quy định. Trường hợp chính sách không phù hợp thì cần được sửa đổi, bổ sung kịp thời để tăng cường hiệu quả của quản lý nhà nước.

1.4. Nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp là sự tác động hướng đích của hệ thống chủ thể quản lý nhà nước đến hoạt động của hệ thống các doanh nghiệp bằng các biện pháp, phương pháp và công cụ; làm cho hoạt động của hệ thống doanh nghiệp vận hành đúng với yêu cầu của các quy luật khách quan và phù hợp với định hướng, mục tiêu của Nhà nước.
Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp là một dạng lao động đặc biệt. Tính đặc biệt này thể hiện ở hệ thống đối tượng quản lý, hệ thống chủ thể quản lý và hệ thống công cụ quản lý.
Đối tượng của quản lý nhà nước là hệ thống các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, hoạt động sản xuất, kinh doanh trên mọi ngành nghề, lĩnh vực; được phân bổ trên nhiều vùng, miền khác nhau. Hoạt động của hệ thống doanh nghiệp này chịu sự tác động tổng hợp của nhiều loại quy luật kinh tế, xã hội, tâm lý và quy luật tự nhiên.
Tính đặc thù của hệ thống chủ thể quản lý là một hệ thống bao gồm nhiều cấp, nhiều bộ phận chức năng, đòi hỏi sự tác động của cả hệ thống đó phải đồng bộ, theo định hướng và mục tiêu chung của hệ thống.
Tính đặc thù của hệ thống công cụ quản lý là cơ chế vận dụng các phạm trù kinh tế của nền sản xuất hàng hoá tạo thành một hệ thống các đòn bẩy quản lý, lấy phương pháp kinh tế và đòn bẩy kinh tế làm công cụ tác động chủ yếu trong hoạt động quản lý.

1.4.1. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp bằng pháp luật
Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về kinh tế. Nhà nước quản lý nền kinh tế, kiểm soát các thành phần kinh tế thông qua các doanh nghiệp. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp là hoạt động quảnlý vĩ mô, có nội dung rộng và bao quát. Về cơ bản, nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp bằng pháp luật thể hiện ở các vấn đề sau:
- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, phổ biến, hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến doanh nghiệp;
- Tổ chức đăng ký kinh doanh, hướng dẫn việc đăng ký kinh doanh bảo đảm chiến lược, quy hoạch và các kế hoạch cđịnh hướng phát triển kinh tế, xã hội;
- Tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao đạo đức kinh doanh cho người quản lý doanh nghiệp; nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý nhà nước; đào tạo và xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề;
- Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp theo định hướng và mục tiêu chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội;
- Kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp; xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp, của cá nhân và của tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật.

1.4.2. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp bằng chính sách
Chính sách kinh tế nói chung, chính sách quản lý doanh nghiệp nói riêng là tổng thể các quan điểm, chuẩn mực, biện pháp mà Nhà nước sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế, xã hội trong số các mục tiêu chiến lược chung của đất nước một cách tốt nhất.

- Chính sách nghành nghề kinh doanh của doanh nghiệp
Xuất phát từ nhận thức về kinh tế thị trường gắn với quyền tự do kinh doanh, Nhà nước đã thay đổi căn bản trong chính sách ngành nghề kinh doanh đối với doanh nghiệp. Theo đó, ngành nghề kinh doanh đối với doanh nghiệp đã được mở rộng, chuyển từ việc chỉ được kinh doanh trong những ngành nghề Nhà nước cho phép kinh doanh sang kinh doanh trong tất cả những ngành nghề mà Nhà nước không cấm. Đây là nguyên tắc phản ánh mối quan hệ cơ bản giữa doanh nghiệp với Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Từ nguyên tắc này, doanh nghiệp có quyền tự chủ thực sự trong các quyết định kinh doanh. Doanh nghiệp từ chỗ không có quyền tự chủ, thực hiện cơ chế xin - cho, nay trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các quyết định kinh doanh; còn Nhà nước từ chỗ là cơ quan ban phát, ra lệnh trở thành tổ chức hỗ trợ, tạo lập môi trường cho doanh nghiệp hoạt động. Chính sách mới về ngành nghề kinh doanh bảo đảm cho nhà đầu tư có cơ hội lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực đầu tư phù hợp với chuyên môn, kinh nghiệm, năng lực tài chính và quản lý của mình.
Tuy nhiên, quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp chỉ gắn với sự thừa nhận và bảo hộ của Nhà nước để tránh tính trạng sự tự do của doanh nghiệp làm phương hại đến lợi ích của các chủ thể khác. Chính vì vậy, tự do lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp không bao gồm những ngành nghề, lĩnh vực mà hoạt động của nó sẽ gây phương hại đến lợi ích của cộng động.

- Chính sách chủ thể quản lý kinh doanh trong doanh nghiệp
Kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp là hoạt động có tính chất năng động và phức tạp. Hoạt động kinh doanh chịu sự tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó có tác động từ các quy luật kinh tế. Sự tồn tại, phát triển hay đổ vỡ của một doanh nghiệp có thể ảnh hưởng đến khách hàng, các đối tác, hoặc thậm chí tạo ra hiệu ứng đô-mi-nô kéo theo đổ vỡ hàng loạt của các doanh nghiệp khác, gây xáo trộn đối với nền kinh tế quốc dân. Khả năng doanh nghiệp thích ứng với cạnh tranh và đạt được mục tiêu hoạt động của mình phần nhiều phụ thuộc vào phẩm chất và năng lực của nhà quản lý. Chính vì vậy, Nhà nước quy định các điều kiện để một người có thể thành lập, quản lý doanh nghiệp. Quy định này nhằm hạn chế những rủi ro không đáng có cho chính những người không đủ kinh nghiệm, trình độ năng lực quản lý cũng như giảm bớt những rủi ro cho những chủ thể khác, cho toàn bộ nền kinh tế.

- Chính sách xây dựng khung quản trị doanh nghiệp
Khung quản trị doanh nghiệp là hình thức cơ cấu tổ chức quản lý, kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Khung quản trị doanh nghiệp vì thế có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quản lý doanh nghiệp. Đặc trưng của mỗi loại hình doanh nghiệp nằm ở chính sự khác nhau của cơ cấu tổ chức quản trị nội bộ doanh nghiệp. Trong phạm vi nền kinh tế, khung quản trị cần đảm bảo cho hoạt động quản lý nội bộ doanh nghiệp có hiệu quả. Trong phạm vi nội bộ doanh nghiệp, khung quản trị cần tạo cơ sở đảm bảo cho quyền và lợi ích của từng nhà đầu tư. Như vậy, khung quản trị doanh nghiệp sẽ chi phối đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả những sự hợp lý và tiềm ẩn những nguy cơ bất bình đẳng giữa các thành viên trong doanh nghiệp. Chính vì lẽ đó, doanh nghiệp không thể tự tạo ra khung quản trị cho mình mà chỉ Nhà nước mới đủ điều kiện và thẩm quyền xây dựng khung quản trị cho doanh nghiệp.
Nhà nước tạo ra nhiều loại hình doanh nghiệp với những khung quản trị được thiết kế tương ứng là tạo ra nhiều sự lựa chọn cho các nhà đầu tư khác nhau. Chính sách chung trong việc xây dựng khung quản trị là đảm bảo quyền lợi cho thành viên yếu thế và tạo cơ sở cho quản trị nội bộ linh hoạt, hiệu quả. Để giải quyết chính sách cơ bản đó, khung quản trị do Nhà nước ban hành phải giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa các thành viên, cổ đông trong công ty với nhau; giữa cổ đông và đại diện của cổ đông; giữa công ty với các thành viên, cổ đông của công ty..
Thực tiễn kiểm chứng khung quản trị ở Việt Nam được quy định trong pháp luật về doanh nghiệp vẫn chưa bảo vệ được cổ đông thiểu số, công cụ bảo vệ quyền lợi cho họ vẫn chưa đi vào cuộc sống, họ vẫn tiếp tục đứng ngoài các quyết định quản trị công ty. Ban kiểm soát tồn tại một cách hình thức, chưa đảm bảo tính độc lập và còn phụ thuộc nhiều vào hội đồng quản trị. Do vậy, trong việc xây dựng chính sách, các quốc gia luôn phải tiếp tục hoàn thiện khung quản trị để thúc đẩy kinh tế phát triển.

- Chính sách của Nhà nước về vấn đề quản trị doanh nghiệp
Kinh tế thị trường với những quy luật vốn có của nó đòi hỏi doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng, tự chủ trong tổ chức sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp là phải phân biệt giữa quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô với hoạt động quản trị sản xuất kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp. Vì vậy, chính sách của Nhà nước về vấn đề quản trị doanh nghiệp không đồng nghĩa với việc Nhà nước can thiệp vào công việc nội bộ của doanh nghiệp. Chính sách của Nhà nước trong vấn đề quản trị doanh nghiệp chỉ tác động đến những mối quan hệ mang tính chất chung của mọi doanh nghiệp, tạo ra những bảo đảm về khả năng vận hành của bộ máy quản trị và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng. Vì thế Nhà nước sẽ chi phối những vấn đề quản lý doanh nghiệp ở những nội dung:
+ lập sổ sách kế toán, ghi chép sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ và lập báo cáo tài chính của doanh nghiệp;
+ chế độ quản lý của hội đồng thành viên, của giám đốc, của cổ đông và người lao động trong doanh nghiệp;
+ chế độ làm chủ tập thể trong hợp tác xã;
+ quy định việc thành lập Ban kiểm soát ở một số doanh nghiệp và cơ chế kiểm soát doanh nghiệp;
+ đăng ký, kê khai, nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật;
+ bảo đảm quyền, lợi ích của người lao động về thời gian làm việc, chế độ lương, thưởng, bảo hiểm, tham gia quản lý doanh nghiệp và các lợi ích khác theo quy định của pháp luật.

- Chính sách của Nhà nước về quản lý chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm thể hiện ở mức độ thoả mãn những nhu cầu định trước cho nó trong điều kiện xác định về kinh tế - kỹ thuật.
Như vậy, một sản phẩm được xem là đạt chất lượng khi nó thoả mãn những nhu cầu, những tiêu chuẩn đã định trước cho nó, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể. Bị chi phối bởi những điều kiện kinh tế, xã hội, các tiêu chí đánh giá chất lượng sản phẩm sẽ thay đổi và chất lượng sản phẩm ngày càng phải đáp ứng được yêu cầu cao hơn. Do đó, hoạt động quản lý chất lượng có ý nghĩa quan trọng đối với việc tạo ra sản phẩm.
Có nhiều nguyên nhân có thể chi phối đến chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp luôn hướng đến tối đa hoá lợi nhuận. Vì thế, không ít doanh nghiệp đã bỏ qua những quy trình sản xuất hoặc sử dụng nguyên vật liệu không đảm bảo chất lượng để tạo ra sản phẩm có giá thành rẻ nhất, thu lợi nhiều nhất. Một nguyên nhân khác nữa là do trình độ công nghệ, dây chuyên sản xuất và năng lực chuyên môn, năng lực quản lý hạn chế; dù không cố ý nhưng doanh nghiệp vẫn tạo ra những sản phẩm không đảm bảo chất lượng.
Cho dù vì bất cứ nguyên nhân nào, những sản phẩm không đảm bảo chất lượng do doanh nghiệp sản xuất ra đều ảnh hưởng đến lợi ích của cộng đồng, đồng thời đe doạ khả năng phát triển bền vững của doanh nghiệp. Vì vậy, quản lý chất lượng sản phẩm hàng hoá không chỉ thuộc về doanh nghiệp mà còn là trách nhiệm của Nhà nước. Quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hoá là nhằm định hướng phát triển, nâng cao và kiểm soát chất lượng sản phẩm đáp ứng các mục tiêu kinh tế, xã hội từng thời kỳ. Quản lý Nhà nước về chất lượng sản phẩm bao gồm các nội dung sau đây:
+ xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách quy hoạch và kế hoạch về chất lượng sản phẩm;
+ ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm;
+ tổ chức và quản lý hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm;
+ ban hành và quy định việc áp dụng tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn ngành; quy định việc áp dụng tiêu chuẩn nước ngoài và tiêu chuẩn quốc tế; hướng dẫn và áp dụng tiêu chuẩn cơ sở;
+ quản lý hoạt động chứng nhận hàng hoá, chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng, hoạt động công nhận hệ thống chất lượng của phòng thử nghiệm chất lượng hàng hoá, tổ chức chứng nhận chất lượng hàng hoá, tổ chức chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng;
+ tổ chức nghiên cứu khoa học, áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực chất lượng hàng hoá;
+ tổ chức quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ thuật về chất lượng hàiêtng hoá;
+ tổ chức công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức và pháp luật về chất lượng hàng hoá;
+ kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về chất lượng hàng hoá; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm pháp luật về chất lượng hàng hoá.

- Chính sách của Nhà nước đối với việc doanh nghiệp khai thác và sử dụng tài nguyên thiên và môi trường
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là hoạt động có liên quan chặt chẽ đến khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Hoạt động đó có thể theo hai hướng: một là doanh nghiệp khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên hợp lý, gắn khai thác, sử dụng với tái tạo tài nguyên thiên nhiên và môi trường; hai là xuất phát vì lợi ích trước mắt và vì lợi ích cục bộ, doanh nghiệp khai thác, sử dụng tài nguyên bừa bãi, gây lãng phí và cạn kiệt nguồn tài nguyên, tàn phá môi trường. Vì vậy, cần tăng cường quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, kết hợp lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài, lợi ích cục bộ của doanh nghiệp với lợi ích chung của cộng đồng, lợi ích kinh tế với lợi ích xã hội và môi trường, nhằm phát triển cân đối, hài hoà kinh tế - xã hội của các ngành, các vùng, bảo vệ môi trường trong lành và duy trì cân bằng sinh thái. Những tác động và tài nguyên thiên nhiên và môi trường cần đặt trong sự quản lý của Nhà nước thông qua các quy định:
+ loại tài nguyên thiên nhiên được khai thác, sử dụng;
+ Nhà nước quản lý và tham gia đầu tư khai thác và sử dụng các tài nguyên thiên nhiên đặc biệt. Hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong một số ngành khai khoáng;
+ quyết định mục đích khai thác, sử dụng đối với các tài nguyên đặc biệt;
+ chế độ khai thác, bảo quản, chế biến tài nguyên;
+ định mức sử dụng tiết kiệm tài nguyên trong sản xuất;
+ chế độ xử lý an toàn vệ sinh môi trường khi khai thác và sử dụng tài nguyên.
Quản lý tài nguyên thiên nhiên và môi trường là vấn đề mang tính chiến lược đối với quốc kế dân sinh. Vì vậy, hầu hết các nước đều tăng cường các biện pháp quản lý tài nguyên thiên nhiên nhằm phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững. Nhà nước quản lý thông qua các hình thức:
+ khoang vùng cấm khai thác tại các vùng tài nguyên cần bảo vệ, bảo tồn;
+ thực hiện chế độ xin phép và cấp phép khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên quốc gia;
+ quy định tiêu chuẩn kỹ thuật cho việc khai thác, vận chuyển, bảo quản, sử dụng tài nguyên; nghiêm cấm sử dụng các phương pháp, phương tiện khai thác bất lợi cho sự tái tạo của tài nguyên, bất lợi cho môi trường;
+ quy định các định mức, điều kiện sử dụng tìa nguyên vào sản xuất; ấn định mục đích, hạn mức sử dụng, chế độ thu hồi, tái chế đối với tài nguyên quý hiếm và vật phẩm có nguồn gốc là tài nguyên quý hiếm.
Nhà nước quản lý hoạt động của doanh nghiệp liên quan đén tác động vào môi trường thông qua các hình thức:
+ nghiêm cấm sử dụng nguyên - nhiên - vật liệu có chất thải độc hại không xử lý
được;
+ quy định tiêu chuẩn kỹ thuật và công nghệ xử lý bắt buộc đối với chất thải;
+ xử phạt vi phạm đối với các doanh nghiệp khong xử lý hoặc xử lý không bảo đảm các chất thải ra môi trường; xét duyệt quy hoạch các khu công nghiệp sản xuất các hàng hoá đặc biệt, nhiều nguy cơ ô nhiễm.

- Chính sách bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của doanh nghiệp
Hoạt động kinh tế có tính cạnh tranh cao của kinh tế thị trường đã tạo ra những sản phẩm kết tinh hàm lượng khoa học - công nghệ cao trong đó. Mức độ cạnh tranh cao đã thúc đẩy các doanh nghiệp tập trung vào nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ. Vì thế, các doanh nghiệp với tư cách là nhà sản xuất thường mong muốn được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp khi sản phẩm được đưa ra thị trường; từ đó tạo điều kiện để họ bù đắp những chi phí nghiên cứu và phát triển. Đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu hang hoá, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý. Đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp có đặc
điểm:
+ là một trong những yếu tố cấu thành hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp;
+ được ứng dụng trong hoạt động kinh tế thương mại;
+ là yếu tố thể hiện lợi thế cạnh tranh thương mại;
+ là loại tài sản có giá trị cao, là hàng hoá đặc biệt.
Với những đặc điểm trên, đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp cần phải được doanh nghiệp, cá nhân và các chủ thể khác đăng ký tại Cơ quan nhà nước để được bảo hộ. Sau khi đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, chủ sở hữu là chủ thể duy nhất có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối tượng sở hữu công nghiệp đó. Việc thực hiện quản lý nhà nước đối với vấn đề sở hữu công nghiệp là cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dụng, doanh nghiệp chủ sở hữu và thúc đẩy xã hội hoá sản xuất công nghiệp.

- Chính sách phân phối thu nhập của doanh nghiệp
Sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hướng đến lợi nhuận, vì thế giải quyết việc phân chia thoả đáng các lợi ích kinh tế là vấn đề quan trọng tạo ra động lực phát triển sản xuất kinh doanh. Để phân chia lợi ích kinh tế từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Nhà nước quy định các loại thuế mà doanh nghiệp phải đóng, chế độ tiền lương tối thiểu của người lao động.... Những quy định của Nhà nước nhằm giải quyết: quan hệ lợi ích giữa doanh nghiệp với Nhà nước, giữa người sử dụng lao động với người lao động, giữa những người lao động với nhau, giữa doanh nghiệp với các cổ đông.. Nhà nước quản lý bằng các áp dụng cách phân chia lợi nhuận trên cơ sở công bằng, cùng có lợi, rút ngắn khoảng cách phân hoá giàu nghèo, áp dụng phân phối theo lao động, theo vốn góp và áp dụng các hình thức phấn phối khác nhằm đảm bảo chính sách xã hội.

- Chính sách quản lý doanh nghiệp theo hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường
Doanh nghiệp và vấn đề sở hữu của doanh nghiệp là những nội dung được các Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp quan tâm. Sở hữu chi phối trực tiếp sự bảo toàn các nguồn lực tài sản của doanh nghiệp và những quan điểm chính sách phát triển của doanh nghiệp ở nhiều nước.
Điều 51 Hiến pháp 2013 quy định: “1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. 3. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.” Điều đó thể hiện quan điểm của Nhà nước trong quản lý các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trên nguyên tắc thị trường và bị chi phối bởi bản chất xã hội chủ nghĩa. Do đó, để thống nhất trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã ghi nhận:
+ Nhà nước thừa nhận sự tồn tại của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền tự do cạnh tranh và thực hiện nghĩa vụ theo loại hình doanh nghiệp;
+ Luật doanh nghiệp 2014 không điều chỉnh doanh nghiệp nhà nước như loại hình doanh nghiệp chủ đạo trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động có nghĩa vụ chuyển sang hình thức Công ty TNHH, Công ty cổ phần và hoạt động theo Luật doanh nghiệp 2014. Các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước tồn tại và phát triển dưới hình thức mới vẫn có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để đại diện cho chủ sở hữu nhà nước, cho lợi ích của cộng đồng. Việc quản lý các doanh nghiệp này không có ưu tiên, không có ngoại lệ so với các hình thức doanh nghiệp khác. Điều đó đảm bảo việc thống nhất trong quản lý, đảm bảo bình đẳng giữa các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước được tự chủ hơn trong hoạt động và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình.
+ quy định chính sách ngành nghề cấm kinh doanh, ngành nghề kinh doanh có điều kiện áp dụng cho cho mọi loại hình doanh nghiệp và những ngành nghề áp dụng riêng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo lợi ích quốc gia.

No comments:

Post a Comment