Tuesday, May 24, 2016

Câu 4: Các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế



Câu 4: Các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế


1.1.  Chức năng định hướng sự phát triển cho nền kinh tế
1.1.1.  Khái niệm chức năng định hướng sự phát triên
Định hướng sự phát triển kinh tế là xác định con đường, hướng sự vận động của nền kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu nhất định căn cứ trên điều kiện, đặc điểm của kinh tế - xã hội đất nước từng thời kỳ.
1.1.2.  Sự cần thiết khách quan của chức năng định hướng sự phát triên
Sự vận hành của nền kinh tế thị trường mang tính tự phát, tính không xác định rất lớn. Do đó Nhà nước phải thực hiện chức năng định hướng sự phát triển của mình. Điều này không những cần thiết cho sự phát triển kinh tế chung mà còn cần thiết cho việc sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sẽ dự đoán được sự biến đổi của thị trường, nắm lấy cơ hội sản xuất - kinh doanh, cũng như lường trước và hạn chế được những bất lợi có thể xảy ra, hạn chế những ngành phát triển tự phát không phù hợp với lợi ích xã hội, đẩy mạnh những ngành mũi nhọn.
1.1.3.  Phạm vi định hướng sự phát triên kinh tế
Nhà nước định hướng sự phát triển kinh tế cho toàn bộ nền kinh tế, các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế.
Nhà nước không có chức năng định hướng phát triển cho từng doanh nghiệp riêng rẽ, mà căn cứ trên định hướng phát triển chung cho toàn bộ nền kinh tế, các doanh nghiệp tự định hướng phát triển cho mình.
1.1.4. Nội dung định hướng sự phát triên kinh tế
Xác định mục tiêu chung dài hạn. Mục tiêu này là cái đích trong một tương lai xa, có thể vài chục năm hoặc xa hơn nữa.
Xác định mục tiêu từng trong từng thời kỳ (có thể là 10 năm, 20 năm), các mục tiêu này được xác định trong chiến lược phát triển kinh tế và được thể hiện trong kế hoạch 5 năm, 3 năm, hoặc hàng năm.
Xác định thứ tự ưu tiên giữa các mục tiêu;
Xác định các giải pháp để đạt được mục tiêu.
1.1.5. Công cụ thực hiện chức năng định hướng sự phát triên kinh tế
Nhà nước thực hiện chức năng định hướng sự phát triển kinh tế thông qua các công cụ:
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội;
-  Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội;
-  Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn);
-  Các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
-  Các dự án ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội.
-  Các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, mục tiêu, dự án phát triển cũng được dùng cho việc định hướng phát triển ngành, các vùng lãnh thổ.
1.1.6.  Nhiệm vụ của Nhà nước đê thực hiện chức năng định hướng sự phát triển
Nhà nước phải tiến hành các công việc sau:
-  Phân tích, đánh giá thực trạng của nền kinh tế, những nhân tố trong nước và quốc tế có ảnh hưởng đến sự phát triển hiện tại và tương lai của nền kinh tế;
-  Dự báo phát triển kinh tế tế;
-  Hoạch định phát triển kinh tế, bao gồm:
+ xây dựng đường lối phát triển kinh tế - xã hội;
+ hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội;
+ hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội;
+ hoạch định phát triển ngành, vùng, địa phương;
+ lập chương trình mục tiêu và dự án để phát triển.
1.2.  Tạo lập môi trường cho sự phát triên kinh tế
1.2.1.  Khái niệm môi trường cho sự phát triên kinh tế
Môi trường cho sự phát triển kinh tế là tập hợp các yếu tố, các điều kiện tạo nên khung cảnh tồn tại và phát triển của nền kinh tế; nói cách khác, là tổng thể các yếu tố, điều kiện khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài,  có mối liên hệ  mật thiết  với nhau,  ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến việc phát triển kinh tế và  quyết  định đến hiệu quả kinh tế.
Một môi trường kinh tế thuận lợi được xem là bệ phóng, là điểm tựa vững chắc cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và cho hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng. Ngược lại, môi trường kinh tế không thuận lợi không những sẽ kìm hãm, cản trở mà còn làm cho nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ, các doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản hàng loạt.
Vì vậy, việc tạo lập môi trường cho sự phát triển kinh tế chung của đất nước và cho sự phát triển sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp là một trong những chức năng quản lý nhà nước về kinh tế.
1.2.2.  Các loại môi trường cần thiết cho sự phát triên kinh tế
*  Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là một bộ phận của môi trường vĩ mô. Môi trường kinh tế được hiểu là một hệ thống hoàn cảnh kinh tế được cấu tạo nên bởi một loạt nhân tố kinh tế. Các nhân tố thuộc về cầu như sức mua của xã hội và các nhân tố về cung như sức cung của nền sản xuất xã hội có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế.
Đối với sức mua của xã hội, Nhà nước phải có:
-  Chính sách nâng cao thu nhập dân cư;
-  Chính sách giá cả hợp lý;
-  Chính sách tiết kiệm và tín dụng cần thiết;
-  Chính sách tiền tệ ổn định, tránh lạm phát.
Đối với sức cung của xã hội, Nhà nước cần phải có:
-  Chính sách đầu tư hấp dẫn cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài để phát triển sản xuất kinh doanh;
-  Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sản xuất kinh doanh, giao lưu hàng hoá.
Yêu cầu chung căn bản nhất đối với môi trường kinh tế là ổn định, đặc biệt là giá cả và tiền tệ, giá cả không được leo thang, tiền tệ không được lạm phát lớn.
*  Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý là tổng thể các hoàn cảnh luật định, được Nhà nước tạo ra để điều tiết sự phát triển kinh tế, buộc các chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế trong nền kinh tế phải tuân theo.
Môi trường pháp lý càng rõ ràng, chính xác, bình đẳng càng tạo ra sự thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tránh sai phạm, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người sản xuất và người tiêu dùng.
Nhà nước cần tạo ra môi trường pháp lý nhất quán, đồng bộ, từ việc xây dựng Hiến pháp, luật, các văn bản dưới luật để làm căn cứ pháp lý cho mọi hoạt động kinh tế. Do đó:
-  Đường lối phát triển kinh tế của Đảng, chính sách kinh tế của Nhà nước phải được thể chế hoá;
-  Công tác lập pháp, lập quy, xây dựng các luật kinh tế cần được Nhà nước tiến hành, hoàn thiện các luật kinh tế đã ban hành; xây dựng và ban hành các luật kinh tế mới.
*  Môi trường chính trị
Môi trường chính trị là tổ hợp các hoàn cảnh chính trị, nó được tạo bởi thái độ chính trị của Nhà nước và của các tổ chức chính trị, tương quan giữa các tầng lớp trong xã hội, là sự ổn định chính trị để phát triển.
Môi trường chính trị có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nền kinh tế và đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp. Do vậy, Nhà nước phải tạo ra môi trường chính trị ổn định, rộng mở cho sự phát triển kinh tế, tạo sự thuận lợi tối đa cho việc phát triển nền kinh tế đất nước, và cho hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc tạo lập môi trường chính trị phải thực hiện trên cơ sở giữ vũng độc lập dân tộc, thể chế chính trị dân chủ, thể chế kinh tế phù hợp với Kinh tế thị trường, bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế.
*  Môi trường văn hoá - xã hội
Môi trường văn hoá là không gian văn hoá được tạo bởi các quan niệm về giá trị, nếp sống, cách ứng xử, tín ngưỡng, phong tục tập quán và thói quen.
Môi trường xã hội là tổng thể các mối quan hệ giữa người với người được quy định bởi luật lệ, các thể chế, các cam kết, các quy định của cấp trên, của các tổ chức, của các cuộc họp cấp quốc tế và quốc gia, của các cơ quan, làng xã, các tổ chức tôn giáo..
Môi trường văn hoá - xã hội ảnh hưởng đến tâm lý, thái độ, hành vi và sự ham muốn của con người.
Trong quá trình phát triển kinh tế và sản xuất - kinh doanh luôn phải tính đến môi trường văn hoá - xã hội. Nhà nước phải tạo ra môi trường văn hoá - xã hội đa dạng, đậm đà bản sắc của cả dân tộc Việt Nam và của riêng các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam; quý trọng, giữ gìn, phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của văn hoá thế giới; xây dựng nền văn hoá mới thích ứng với phát triển kinh tế và sản xuất - kinh doanh.
*  Môi trường sinh thái
Môi trường sinh thái, theo cách hiểu thông thường là không gian bao gồm nhiều yếu tố, trước hết là yếu tố tự nhiên, gắn kết với nhau và tạo nên điều kiện sống cho con người và sinh vật như không khí, nước, đất, tài nguyên khoáng sản..
Môi trường sinh thái có ảnh hưởng lớn đến sụ phát triển kinh tế của đất nước và hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhà nước phải tạo ra môi trường sinh thái xanh, sạch, đẹp, đa dạng sinh học, bền vững để bảo đảm nền kinh tế phát triển bền vững. Nhà nước phải có biện pháp chống ô nhiễm, chống huỷ hoại môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái, cảnh quan thiên nhiên bằng pháp luật và các chính sách bảo vệ môi trường sinh thái.
*  Môi trường kỹ thuật
Môi trường kỹ thuật là không gian khoa học - công nghệ bao gồm các yếu tố về số lượng, tính chất và trình độ của các ngành khoa học - công nghệ; về nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất; về chuyển giao khoa học - công nghệ.
Nhà nước phải tạo ra một môi trường kỹ thuật hiện đại, thích hợp, thiết thực, phục vụ cho sự phát triển kinh tế bằng các chính sách hợp lý, kịp thời của mình.
*  Môi trường dân số
Môi trường dân số là hệ thống các yếu tố tạo nên không gian dân số, bao gồm quy mô, cơ cấu, sự di chuyển, tốc độ gia tăng và chất lượng dân số. Môi trường dân số là một trong những môi trường phát triển kinh tế.
Trong quá trình phát triển kinh tế, con người đóng vai trò hai mặt: một mặt là người tiêu dung, mặt khác là người sản xuất quyết định quá trình biến đổi và phát triển sản xuất, tức là cho sự phát triển kinh tế.
Nhà nước phải tạo ra một môi trường dân số hợp lý cho sự phát triển kinh tế bao gồm yếu tố số lượng và chất lượng dân số, cơ cấu dân số. Nhà nước phải có chính sách điều tiết sự gia tăng dân số với tỷ lệ hợp lý, thích hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế; nâng cao chất lượng dân số trên cơ sở nâng cao chỉ số phát triển con người; bố trí dân cư hợp lý giữa các vùng, phù hợp với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
*  Môi trường quốc tế
Môi trường kinh tế là không gian kinh tế có tính toàn cầu bao gồm các yếu tố có liên quan đến hoạt động quốc tế, trong đó có hoạt động kinh tế quốc tế.
Môi trường kinh tế là điều kiện bên ngoài của sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Nó có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế, đến sản xuất -  kinh doanh của các doanh nghiệp.
Với tinh thần “Giữ vững môi trường hoà bình, phát triển quan hệ trên tinh thần sẵn sáng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập, hợp tác và phát triển”. Nhà nước chủ động tạo môi trường hoà bình, tiếp tục mở rộng và tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác cùng có lợi, thực hiện hiệu quả quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
1.2.3.  Những điều Nhà nước phải làm đê tạo lập môi trường cho sự phát triển kinh tế
Đảm bảo sự ổn định về chính trị và an ninh quốc phòng; mở rộng quan hệ đối ngoaị, trong đó có quan hệ kinh tế đối ngoại.
Xây dựng và thực thi một cách nhất quán các chính sách kinh tế - xã hội theo hướng đổi mới và chính sách dân số hợp lý.
Xây dựng mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng, điều kiện cơ bản bảo đảm cho hoạt động kinh tế có hiệu quả: giao thông, thông tin, dự trữ quốc gia.
-  Xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân  tộc, tiếp thu có  chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới;
-  Xây dựng một nền khoa học - kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, phù hợp để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế và sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp; cải cách giáo dục để tạo ra nguồn nhân lực có kỹ thuật và trí tuệ phục vụ cho sự phát triển kinh tế;
-  Xây dựng, thực thi chính sách và pháp luật về bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ và hoàn thiện môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái.
1.3. Điều tiết hoạt động kinh tế
1.3.1. Khái niệm điều tiết hoạt động kinh tế
Điều tiết hoạt động kinh tế là việc Nhà nước sử dụng quyền năng của mình để chi phối các hành vi kinh tế của các chủ thể trong nền kinh tế, ngăn chặn các tác động tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế, ràng buộc chúng phải tuân thủ các quy tắc hoạt động kinh tế đã định sẵn nhằm bảo đảm cho sự phát triển bình thường của nền kinh tế.
1.3.2. Sự cần thiết khách quan phải điều tiết hoạt động kinh tế
Mặc dù nền Kinh tế thị trường có khả năng tự điều tiết các hành vi, các hoạt động kinh tế theo những quy luật khách quan của nó. Tuy vậy trên thực tế có những hành vi và hoạt động kinh tế nằm ngoài sự điều tiết của bản thân thị trường (như gian lận thương mại, trốn thuế.).
Quá trình phát triển kinh tế chịu tác động của nhiều nhân tố, mà các nhân tố này lại không ổn định do nhiều nguyên nhân như hệ thống pháp luật không hoàn thiện, hệ thống thông tin khiếm khuyết, các nhân tố độc quyền, sự không ổn định của xã hội.. Tất cả những yếu tố đó làm cho chức năng tự điều chỉnh của nền kinh tế - xã hội, chức năng tự điều tiết của thị trường khó phát huy tác dụng. Vì vậy, cần có sự điều tiết các hoạt động kinh tế từ phía Nhà nước.
1.3.3.  Những nội dung điều tiết hoạt động kinh tế của Nhà nước
*  Điều tiết các quan hệ lao động sản xuất
Trong quá trình tiến hành lao động sản xuất, đặc biệt là lao động sản xuất trong nền kinh tế thị trường, diễn ra các mối quan hệ trong phân công và hợp tác lao động giữa các cá nhân, các chủ thể kinh tế với nhau. Sự phân công và hợp tác diễn ra dưới nhiều hình thức, và chức năng của Nhà nước là điều tiết sao cho các quan hệ đó được thiết lập một cách tối ưu và đem lại hiệu quả:
-  Quan hệ quốc gia với quốc tế để hình thành cơ cấu kinh tế quốc dân phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của đất nước; tận dụng các vận hội quốc tế để phát triển kinh tế quốc dân. Ở đây, Nhà nước điều tiết các quan hệ kinh tế đối ngoại: xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ; đầu tư quốc tế; hợp tác và chuyển giao khoa học - công nghệ.;
-  Quan hệ phân công và hợp tác trong nội bộ nền kinh tế quốc dân, hình thành các doanh nghiệp chuyên môn hoá được gắn bó với nhau thông qua các quan hệ hợp tác sản xuất. Ở đây, Nhà nước điều tiết tài chính cho cung cầu, điều tiết giá cả, điều tiết lãi suất, điều tiết thuế, hỗ trợ đầu tư để khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuyên môn hoá hoạt động có hiệu quả;
-  Quan hệ phân công và hợp tác trong lãnh thổ quốc gia thông qua việc phân bố lực lượng sản xuất theo lãnh thổ, hình thành nên phân công chuyên môn hoá theo lãnh thổ. Ở đây, ngoài việc điều tiết tài chính, tín dụng, thuế, hỗ trợ đầu tư. Nhà nước còn điều tiết bằng pháp luật;
-  Sự lựa chọn quy mô xí nghiệp, nguồn tài nguyên, các hành vi sử dụng môi trường, các hành vi lựa chọn thiết bị công nghệ, các hành vi bảo đảm chất lượng sản phẩm và dịch vụ, nhằm đưa các hành vi đó vào chuẩn mực có lợi cho các doanh nghiệp và cộng đồng.
*  Điều chỉnh các quan hệ phân chia lợi ích và quan hệ phân phối thu nhập
-  Quan hệ trao đổi hàng hoá: Nhà nước điều tiết quan hệ cung cầu hàng hoá để trao đổi và tiêu dung trên thị trường diễn ra bình thường, chống gian lận thương mại; lừa lọc về giá cả, mẫu mã, chất lượng sản phẩm. nhằm mục đích bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên tham gia;
-  Quan hệ phân chia lợi tức trong các công ty (quan hệ tiền công, tiền lương): Nhà nước điều tiết quan hệ này để có sự công bằng, văn minh, quan hệ chủ - thợ tốt đẹp;
-  Quan hệ phân chia thu nhập quốc dân hợp tình, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho giới thợ và giới chủ theo đúng cương lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền, đúng pháp luật của Nhà nước;
-  Quan hệ đối với công quỹ quốc gia (quan hệ giữa doanh nghiệp và Nhà nước): doanh nghiệp phải có nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước; nghĩa vụ khác do sử dụng tài nguyên, công sản và do gây ô nhiễm môi trường;
-  Quan hệ giữa các tầng lớp dân cư, giữa người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp, giữa các vùng phát triển và kém phát triển.. Nhà nước điều tiết thu nhập của những người có thu nhập cao, những vùng có thu nhập cao, sau đó phân phối, hỗ trợ lại cho những người có thu nhập thấp, những vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa để giảm bớt khoảng cách chênh lệch về mức sống..;
*  Điều tiết các quan hệ phân bố các nguồn lực
-  Nhà nước điều tiết việc phân bố các nguồn lực: lao động, tài nguyên, vốn, các hàng hoá công (y tế, giáo dục.); hỗ trợ người nghèo, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển nghệ thuật dân tộc;
-  Nhà nước điều tiết phân bổ nguồn lực của nền kinh tế quốc dân về các cùng còn nhiều tiềm năng hoặc các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa;
-  Nhà nước điều tiết nguồn lực theo hướng khuyến khích hoặc hạn chế sự phát triển các ngành nghề nhằm xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý trên phạm vi cả nước.
1.3.4.  Những việc cần làm đê điều tiết hoạt động kinh tế
*  Xây dựng và thực hiện một hệ thống chính sách với các công cụ tác động của chính sách đó, chủ yếu là:
-  Chính sách tài chính (với hai công cụ chủ yếu là chi tiêu Chính phủ và thuế);
-  Chính sách tiền tệ (với hai công cụ chủ yếu là kiểm soát mức cung tiền và lãi suất);
-  Chính sách thu nhập (với các công cụ: giá cả và tiền lương);
-  Chính sách thương mại (với các công cụ: thuế quan, hạn ngạch, tỷ giá hối đoái, trợ cấp xuất khẩu.).
*  Bổ sung hàng hoá và dịch vụ cho nền kinh tế trong những trường hợp cần thiết. Những trường hợp sau đây được coi là cần thiết:
-  Những ngành, lĩnh vực tư nhân không được làm;
-  Những ngành, lĩnh vực tư nhân không làm được;
-  Những ngành, lĩnh vực tư nhân không muốn làm.
*  Hỗ trợ người dân lập nghiệp kinh tế. Cụ thê, Nhà nước cần thực hiện tốt các biện pháp hỗ trợ sau:
-  Xây dựng các ngân hàng đầu tư ưu đãi cho những doanh nghiệp tham gia thực hiện các chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước, kinh doanh những ngành mà Nhà nước khuyến khích;
-  Xây dựng và thực hiện chế độ bảo hiểm sản xuất kinh doanh cho những người thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh theo định hướng của Nhà nước, những doanh nghiệp mới khởi sự, hoặc áp dụng khoa học - công nghệ mới vào sản xuất trong giai đoạn đầu;
-  Cung cấp những thông tin: kinh tế - chính trị - xã hội có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp;
-  Thực hiện chương trình bồi dưỡng kiến thức chuyên môn thông qua việc xây dựng các Trung tâm dạy nghề và xúc tiến việc làm;
-  Mở các trung tâm giới thiệu sản phẩm; triển lãm thành tựu kinh tế kỹ thuật để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giao lưu gặp gỡ, hợp tác sản xuất - kinh doanh với nhau;
-  Thực hiện hỗ trợ pháp lý, đặc biệt là hỗ trợ tư pháp quốc tế đối với các doanh nghiệp kinh doanh không chỉ trên thị trường trong nưóc mà cả trên thị trường quốc tế;
-  Xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết.
1.4.  Chức năng kiêm tra, giám sát hoạt động kinh tế
1.4.1  Khái niệm
Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế là Nhà nước xem xét, đánh giá tình trạng tốt xấu của các hoạt động kinh tế; theo dõi, xét xem việc thực thi hoạt động kinh tế đúng hay sai với các quy định của pháp luật.
Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế là một trong những chức năng quản lý nhà nước về kinh tế. Công tác này phải được thực hiện thường xuyên và nghiêm túc.
1.4.2  Sự cần thiết phải kiêm tra, giám sát hoạt động kinh tế
Quá trình hoạt động kinh tế không phải lúc nào cũng diễn ra một cách bình thường và đưa lại những kết quả mong muốn. Sự kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện những mặt tích cực và tiêu cực, những thành công và thất bại, nền kinh tế đang trong tình trạng phồn vinh hay khủng hoảng, hiệu quả hay kém hiệu quả..
Trên cơ sở đó rút ra những kết luận, nguyên nhân, kinh nghiệm và đề ra giải pháp phát huy ưu điểm và khắc phục khuyết điểm, đồng thời phát hiện ra các cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế quốc dân và đưa nền kinh tế lên một bước tiến mới. Như vậy, kiểm tra và giám sát hoạt động kinh tế là điều cần thiết.
1.4.3  Nội dung kiêm tra, giám sát hoạt động kinh tế
Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế cần được tiến hành trên các mặt sau:
-  Kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch và pháp luật của Nhà nước về kinh tế;
-  Kiểm tra, giám sát việc sử dụng các nguồn lực của đất nước;
-  Kiểm tra, giám sát việc xử lý chất thải và bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái;
-  Kiểm tra, giám sát sản phẩm do các doanh nghiệp sản xuất ra;
-  Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chức năng và việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước trong quá trình quản lý nhà nước về kinh tế.
1.4.4.  Những giải pháp chủ yếu thực hiện kiêm tra, giám sát hoạt động kinh tế
-  Tăng cường chức năng giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với Chính phủ và các Uỷ ban nhân dân các cấp trong quản lý nhà nước về kinh tế;
-  Tăng cường chức năng kiểm tra, giám sát của các Viện kiểm sát nhân dân, các cấp Thanh tra của Chính phủ và của Uỷ ban nhân dân các cấp, cơ quan an ninh kinh tế các cấp đối với các hoạt động kinh tế;
-  Nâng cao tinh thần trách nhiệm và chịu trách nhiệm của những người lãnh đạo Nhà nước và Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, Thủ trưởng các ngành kinh tế và những người có lợi ích liên quan từ trung ương đến địa phương trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế trong cả nước, trong địa phương, trong các ngành;
-  Sử dụng các cơ quan chuyên môn trong nước như Kiểm toán nhà nước, các tổ chức tư vấn kinh tế. và khi cần thiết có thể sử dụng các tổ chức quốc tế, các chuyên gia nước ngoài vào việc kiểm tra giám sát hoạt động kinh tế;
-  Nâng cao vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân, của các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan ngôn luận, các cơ quan thông tin đại chúng trong việc kiểm tra hoạt động kinh tế;
-  Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế;
-  Củng cố hoàn thiện hệ thống cơ quan kiểm tra, giám sát của Nhà nước và xây dựng các cơ quan mới nếu cần thiết, thực hiện việc phân công và phân cấp rõ ràng, nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức của công chức trong bộ máy kiểm tra và giám sát các hoạt động kinh tế.

No comments:

Post a Comment