Câu 11: Quản lý nhà nước đối với kinh tế đối ngoại
1.1. Khái niệm kinh tế
đối ngoại
Ngày nay, khi lực lượng sản xuất ngày
càng phát triển, phân công lao động xã hội ngày càng mở rộng thì các mối quan hệ
trên mọi lĩnh vực của một quốc gia không chỉ dừng lại trong phạm vi quốc gia đó
mà vươn ra thế giới. Các mối quan hệ này về mặt kinh tế gọi là các mối quan hệ
kinh tế quốc tế. Quan hệ kinh tế quốc tế nhìn nhận từ góc độ nền kinh tế của một
nước được gọi là quan hệ kinh tế đối ngoại.
Vậy: kinh tế đối ngoại là tổng thể
các hoạt động, các quan hệ kinh tế, tài chính, khoa học kỹ thuật và công nghệ của
một nước với bên ngoài; qua đó một nước tham gia vào phân công lao động quốc tế
và trao đổi mậu dịch quốc tế.
Phân công lao động quốc tế là quá
trình tập trung việc sản xuất và cung cấp một hoặc một số loại sản phẩm và dịch
vụ vào một quốc gia nhất định dựa trên những ưu thế của quốc gia đó về điều kiện
tự nhiên, khoa học - công nghệ, lao động... để đáp ứng nhu cầu của các quốc gia
khác thông qua trao đổi quốc tế.
Như vậy, kinh tế đối ngoại là một bộ
phận rất quan trọng của nền kinh tế quốc dân, nó bao gồm nhiều ngành kinh tế.
Khi quốc gia thực hiện chính sách mở cửa kinh tế thì hầu như toàn bộ các ngành,
các lĩnh vực kinh tế đều tham gia vào hoạt động kinh tế đối ngoại.
1.2. Sự cần thiết khách
quan của kinh tế đối ngoại
1.2.1. Sự cần thiết
khách quan của kinh tế đối ngoại đối với mọi quốc gia
Các quốc gia trên thế giới đều cần có quan hệ quốc tế về kinh
tế vì các lý do sau đây:
- Sự khác biệt về điều
kiện tự nhiên giữa các quốc gia
Quá trình sản xuất của các quốc gia cần
có các yếu tố sản xuất để tạo ra sản phẩm phục vụ đời sống con người. Yếu tố sản
xuất đầu tiên phải kể đến là điều kiện tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên bao gồm đất đai,
khí hậu, khoáng sản, nguồn nước, tài nguyên rừng, tài nguyên biển.. Trong nền
kinh tế hiện đại, vị trí địa lý cũng được coi là một yếu tố quan trọng của điều
kiện tự nhiên, góp phần vào sư jtawng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc
gia. Việc một quốc gia có nằm trên tuyến đường giao thông hàng hải, hàng không
quốc tế hay không cũng đang trở nên ngày càng quan trọng trong bối cảnh hiện tại.
Thông thường các quốc gia đều tài
nguyên ở những mức độ khác nhau, có những quốc gia nhiều tài nguyên này nhưng lại
thiếu hụt tài nguyên khác, thậm chí có quốc gia không có bất cứ nguồn tài
nguyên nào. Điều đó làm cho mỗi quốc gia có những lợi thế cho việc sản xuất ra
một loại sản phẩm nào đó và lại bất lợi cho việc sản xuất ra sản phẩm khác, dẫn
đến việc dư thừa sản phẩm này nhưng lại thiếu hụt sản phẩm khác.
Các quốc gia đều có nhu cầu về nguồn
tài nguyên và sản phẩm mà mình thiếu hụt, do đó các quốc gia phải trao đổi với
nhau để khắc phục tình trạng này. Nhờ có kinh tế đối ngoại, tài nguyên và sản
phẩm có thể trao đổi với nhau.
- Sự phát triển không đồng
đều về khoa học - công nghệ giữa các quốc gia
Khoa học - công nghệ là hệ thống nhận
thức của con người về thế giới tự nhiên và xã hội, là hệ thống công cụ và
phương pháp công nghệ mà con người tạo ra để chinh phục, chế ngự, lợi dụng tự
nhiên phục vụ cho cuộc sống của mình. Khoa học - công nghệ là nhân tố quyết định
năng suất lao động của mỗi nền sản xuất. Hơn thế nữa, trong nhiều trường hợp,
khoa học - công nghệ còn quyết định sự hiện diện của một ngành sản xuất. Sở dĩ
khoa học - công nghệ có ý nghĩa, tác dụng lớn lao như vậy vì chúng chính là sức
mạnh của tự nhiên được con người huy động để phục vụ lợi ích của mình.
Trình độ khoa học - công nghệ của mỗi
quốc gia thường không đồng đều do những nguyên nhân có tính lịch sử và địa lý tự
nhiên. Trong khi đó, công cuộc phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi các quốc gia
phải nắm bắt mọi vấn đề về khoa học - công nghệ; điều đó buộc các quốc gia phải
trao đổi kiến thức khoa học - công nghệ với nhau.
Hợp tác, trao đổi về khoa học - công
nghệ là một đòi hỏi khách quan, vì không có một quốc gia nào có khả năng tự
mình giải quyết mọi vấn đề khoa học - công nghệ do thực tiễn đặt ra. Sự trao đổi,
kết hợp về khoa học - công nghệ có lợi cho mọi quốc gia. Nó giúp các quốc gia
tiết kiệm được vốn đầu tư, tiết kiệm thời gian, tránh được sự trùng lặp không cần
thiết trong nghiên cứu và áp dụng các thành tựu khoa học.
- Sự khác biệt vè điều
kiện tái sản xuất
Ngoài yếu tố về điều kiện tự nhiên,
khoa học - công nghệ, để phát triển sản xuất còn cần có các yếu tố khác như vốn
đầu tư, lao động.. Những nhân tố này ở các quốc gia thường không đồng đều.
Do trình độ và lịch sử phát triển
kinh tế ở các quốc gia khác nhau nên tiềm lực về vốn và khả năng tích luỹ vốn
khác nhau. Trong môi trường kinh tế mở, vốn đầu tư sẽ tìm đến những nơi có khả
năng sinh ra lợi nhuận cao hơn. Các luồng vốn được luân chuyển qua các hoạt động
đầu tư, tài chính, lưu thông qua hệ thống ngân hàng hoặc thị trường chứng
khoán.
Với các nước đang và chậm phát triển,
khi tốc độ dân số tăng cao nhưng nền kinh tế phát triển chậm thì hậu quả tất yếu
là nạn thất nghiệp sẽ nghiêm trọng. Trong hoàn cảnh đó, các quốc gia cần đẩy mạnh
tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhất là các ngành dùng nhiều sức lao động, hoặc thực
hiện xuất khẩu lao động dư thừa sang các quốc gia thiếu lao động. Ngoài ra sự
chênh lệch về trình độ lao động trong một, một số lĩnh vực cụ thể nào đó cũng dẫn
đến việc xuất nhập khẩu lao động giữa các nước.
- Sự chuyên môn hoá giữa
các quốc gia
Chuyên môn hoá giữa các quốc gia
trong kinh tế là việc tập trung sản xuất một hoặc một số ngnafh nghề vào một quốc
gia nhất định. Quy mô sản lượng của ngành đó vượt quá nhu cầu tiêu dùng nội địa
và có thể xuất khẩu. Trong khi đó, các ngành nghề khác có thể không phát triển
được.
- Sự đa dạng về nhu cầu
tiêu dùng của các quốc gia
Khi đời sống kinh tế ngày càng sung
túc thì người dân các nước muốn tìm đến những mặt hàng phù hợp với nhu cầu và
khả năng thanh toán của mình. Và khi xã hội ngày càng phân hoá giàu nghèo thì
các mặt hangf cũng phải đa dạng hơn để đáp ứng các đối tượng người tiêu dùng
khác nhau. Vì vậy, người ta xuất nhập khẩu hàng hoá để phục vụ nhu cầu phong
phú của nhiều tầng lớp nhân dân trong xã hội.
- Yêu cầu bảo vệ tổ quốc
Quan hệ kinh tế quốc tế là chỗ dựa
quan trọng trong giữ gìn độc lập và hoà bình của mỗi quốc gia. Nếu có quan hệ
đa phương, trong đó có quan hệ với các đối tác tin cậy thì hệ thóng đối tác sẽ
hậu thuẫn cho việc bảo vệ lãnh thổ trong một mức độ nhất định.
1.3. Chức năng của kinh
tế đối ngoại
1.3.1. Chức năng của
kinh tế đối ngoại đối với mọi quốc gia
Kinh tế đối ngoại đối với hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia
có chức năng, nhiệm vụ đặc thù. Nhưng nhìn chung kinh tế đối ngoại của mọi quốc
gia đều có các chức năng sau:
- Hỗ trợ khai thác hiệu
quả lợi thế của các quốc gia, góp phần đổi mới cơ cấu kinh tế và đạt được quy
mô sản xuất tối ưu
Khi quốc gia hội nhập kinh tế quốc tế
và tham gia vào phân công lao động quốc tế, mỗi quốc gia có thể khai thác tối
đa lợi thế so sánh của mình để đạt hiệu quả cao nhất trong mỗi ngành sản xuất,
đồng thời cũng xây dựng được những ngành kinh tế mũi nhọn, nâng cao năng suất,
chất lượng sản phẩm và hạ giá thành, tăng cường khả năng cạnh tranh trong nước
cũng như trên thế giới.
Quá trình này cũng giúp các quốc gia
có thể thực hiện tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu, ứng dụng nhanh các thành
tưu, tiến bộ khoa học - công nghệ, thực hiện các phương án tối ưu về tổ chức sản
xuất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Giúp các quốc gia giải
quyết khó khăn và thiếu hụt về các yếu tố sản xuất (vốn, lao động, tài nguyên,
khoa học - công nghệ)
Thông qua hoạt động kinh tế đối ngoại,
các nước thu được vốn, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tạo việc
làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân. Thông qua hợp tác hoá, chuyên
môn hoá, các quốc gia tránh được những thiếu hụt trong quá trình hoạt động kinh
tế.
- Là cầu nối giữa kinh
tế trong nước và thế giới, giúp các nước có điều kiện tiếp xúc với văn minh
nhân loại, tăng cường hiểu biết và củng cố hoà bình
Nhờ có kinh tế đối ngoại mà các quốc
gia liên kết, gắn bó và ràng buộc với nhau. Thông qua việc xuất nhập khẩu hàng
hoá và dịch vụ, đầu tư, hợp tác khoa học, xuất nhập khẩu lao động. các nước có
điều kiện hiểu biết về truyền thóng văn hoá của nhau. Tích cực, chủ động tham
gia vào phân công lao động quốc tế sẽ làm nền kinh tế mỗi quốc gia trở thành một
hệ thóng mở, trở thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới.
1.3.2. Chức năng của
kinh tế đối ngoại đối với Việt Nam
Kinh tế đối ngoại đối với Việt Nam có những chức năng, nhiệm
vụ đặc biệt như sau:
- Tạo vốn, giải quyết
việc làm
Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của
Nhà nước ta là tạo vốn đầu tư để phát triển xã hội và giải quyết việc làm.
Với dân số đông và chủ yếu làm nông
nghiệp trên một diện tích đất nông nghiệp đang ngày càng bị thu hẹp bởi quá
trình đô thị hoá thì vấn đề việc làm là vấn đề nan giải. Thêm vào đó, với cơ cấu
dân số trẻ, mỗi năm số thanh niên bổ sung vào lực lượng lao động và số lao động
thất nghiệp theo mùa vụ đòi hỏi cần có những giải pháp cấp thiết nhằm tạo việc
làm cho người lao động.
Thu hút vốn và tạo vốn cũng là một
nhiệm vụ quan trọng. Cùng với hoạt động đầu tư nước ngoài thì các hoạt động
kinh tế đối ngoại khác cũng đều hướng đến việc tạo vốn và giải quyết việc làm
cho nền kinh tế.
- Góp phần đổi mới cơ cấu
kinh tế
Xuất phát từ nền kinh tế với tỷ trọng
nông nghiệp là chủ yếu, Việt Nam cần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện
đại hoá. Kinh tế đối ngoại có tác động mạnh đến cơ cấu kinh tế vì nó tạo ra những
ngành công nghiệp mũi nhọn như dầu khí, dệt may, da giày.. Nền kinh tế hoạt động
hiệu quả hơn và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên hơn khi ứng dụng khoa học -
công nghệ hiện đại vào sản xuất.
- Khai thác hiệu quả mọi
nguồn nhân lực làm cho dân giàu nước mạnh
Việt Nam là quốc gia có điều kiện tự
nhiên thuận lợi với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng. Tuy đây
là nguồn lợi lớn nhưng không dễ biến thành thu nhập cho quốc gia nếu không có vốn,
có khoa học - công nghệ hiện đại. Vì vậy, nhờ có kinh tế đối ngoại mà tiềm năng
của nước ta mới được khai thác hiệu quả.
1.4. Sự cần thiết khách
quan của quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại
Kinh tế đối ngoại là một bộ phận của
nền kinh tế quốc dân. Do đó, mọi lý do khiến phải có sự quản lý nhà nước đối với
nền kinh tế quốc dân nói chung cũng là lý do khiến Nhà nước phải thực hiện sự
quản lý đối với kinh tế đối ngoại.
Tuy nhiên, do đặc thù về phạm vi và nội
dung quan hệ nên sự cần thiết của quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại còn vì
các lý do đặc biệt sau:
1.4.1. Nhà nước phải quản
lý kinh tế đối ngoại vì kinh tế đối ngoại có tầm quan trọng đặc biệt
Kinh tế đối ngoại có ý nghĩa toàn diện,
sâu sắc đối với sự phát triển tổng thể kinh tế, xã hội, chính trị, quốc phòng,
ngoại giao của đất nước.
- Về kinh tế, xã hội: kinh tế đối ngoại
giải quyết những vấn đề then chốt của kinh tế như vấn đề vốn đầu tư, vấn đề tiến
bộ khoa học và công nghệ, vấn đề chuyển dịch cơ cấu và phân công lao động quốc
tế theo lợi thế so sánh. Đó là những vấn đề then chốt để tăng năng suất lao động
xã hội, quyết định sự thắng lợi của mọi chế độ kinh tế;
- Về chính trị, ngoại giao, quốc
phòng: kinh tế đối ngoại liên quan đến việc mở rộng quan hệ bạn bè, loại trừ và
cô lập kẻ thù, liên quan đến việc bảo vệ bí mật quốc gia, vấn đề bảo vệ vị trí
kinh tế của đất nước trên trường quốc tế, cơ sở để giữ vững độc lập chính trị,
an ninh quốc phòng.
1.4.2. Nhà nước phải đặc
biệt quan tâm quản lý kinh tế đối ngoại vì nhu cầu đặc biệt của doanh nghiệp
trong kinh tế đối ngoại
Doanh nghiệp trong hoạt động kinh tế đối ngoại cần đến Nhà nước
vì:
- Quan hệ xã hội trong kinh tế đối
ngoại vượt khỏi tầm quốc gia, là thứ quan hệ chỉ có Nhà nước mới có đủ tư cách
pháp lý và đủ khả năng giúp các doanh nghiệp có được các quan hệ xã hội quốc tế;
- Kinh tế đối ngoại là hoạt động kinh
tế lớn về quy mô, phức tạp về khoa học và công nghệ, nên doanh nghiệp cần có sự
hỗ trợ về tri thức, về vốn từ phía Nhà nước;
- Kinh tế đối ngoại là lĩnh vực đầy bất
trắc và phức tạp, chỉ dựa vào Nhà nước thì doanh nghiệp mới có thể yên tâm hoạt
động.
1.5. Vai trò, chức năng
đặc thù của Nhà nước trong kinh tế đối ngoại
Ngoài các chức năng chung trong quản lý nhà nước về kinh tế,
trong quản lý nhà
nước về kinh tế đối ngoại, Nhà nước có các chức năng đặc thù
sau:
1.5.1. Chức năng bảo vệ
độc lập Tổ quốc, bảo vệ các lợi ích quốc gia mà kinh tế
đối ngoại có liên quan
Phạm vi bảo vệ bao gồm:
- Bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia, không để các hoạt động kinh tế đối ngoại trở thành nguyên nhân gây nên sự
xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc;
- Bảo vệ môi trường và tài nguyên của
đất nước khi các doanh nghiệp nước ngoài sử dụng;
- Bảo vệ các bí mật về thông tin kinh
tế, khoa học, công nghệ mà hoạt động kinh tế có thể làm lộ;
- Bảo vệ các quyền lợi kinh tế khác của
đất nước mà các chủ thể tham gia kinh tế đối ngoại có nghĩa vụ giao nộp cho đất
nước theo quy định;
- Bảo vệ lợi ích của công dân nước
nhà trong các quan hệ với đối tác nước ngoài.
1.5.2. Chức năng định
hướng kinh tế đối ngoại sao cho có lợi nhất cho Tổ quốc
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại phải làm sao cho kinh tế
đối ngoại giải quyết được các nhiệm vụ kinh tế, xã hội của đất nước như:
- Tạo được nhiều việc làm nhất cho đất
nước;
- Bù đắp được sự thiếu hụt về nguồn lực
kinh tế cho đất nước như: bù đắp sự thiếu hụt nguyên liệu, tri thức, hàng hoá,
dịch vụ. ;
- Khai thác được lợi thế kinh tế của
đất nước: khai thác nguồn xuất khẩu, khai thác lợi thế địa lý kinh tế.;
- Tạo được môi trường hoà bình, hữu
nghị cho đất nước.
1.5.3. Chức năng bảo đảm
những điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế đối ngoại
- Nhà nước đảm bảo ổn định về chính
trị cho kinh tế đối ngoại
Để phát triển kinh tế đối ngoại, điều kiện tiên quyết là giữ
vững môi trường hoà bình
và hữu nghị với các nước trong khu vực và trên thế giới, tạo
bầu không khí thuận lợi cho các hoạt động kinh tế nói chung và kinh doanh quốc
tế nói riêng.
Bảo đảm sự ổn định chính trị thể hiện trên hai mặt:
+ ổn định chế độ chính trị của chính
nước mình;
+ ổn định quan hệ chính trị với cộng
đồng quốc tế.
Sự ổn định chính trị trong các mặt nêu trên là điều kiện tiên
quyết cho kinh tế đối ngoại, bởi lẽ:
+ giúp cho công dân của chính quố c
gia ổn định để lập nghiệp, nhất là lập nghiệp trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại;
+ giúp cho đối tác nước ngoài tin tưởng
ở môi trường kinh doanh của quốc gia.
- Nhà nước tạo tiền đề ngoại giao cho
công dân thực hiện hoạt động kinh tế đối ngoại
Kinh tế đối ngoại chủ yếu do cá nhân
thực hiện. Nhưng quan hệ này chỉ có thể có được khi quan hệ ngoại giao giữa các
quốc gia được thiết lập. Do vậy, quản lý Nhà nước có chức năng trước hết là tạo
được quan hệ ngoại giao để công dân có thể thực hiện được các quan hệ kinh tế đối
ngoại với nhau.
- Nhà nước tạo điều kiện pháp lý quốc
tế cho kinh tế đối ngoại
Khi công dân của một nước tham gia
vào hoạt động kinh tế ở nước ngoài, không thể không có sự can thiệp của pháp luật
nước ngoài. Khi đó nảy sinh vấn đề thống nhất hành lang pháp luật giữa các nước
có công dân quan hệ kinh tế với nhau. Về nguyên tắc, pháp luật của các nước phải
đồng bộ và nhất quán với nhau, ít thay đổi và phải phù hợp với luật pháp và
thông lệ quốc tế.
- Nhà nước tạo dựng nền hành chính
kinh tế đối ngoại thuận lợi, mang tính quốc tế hiện đại
Nền hành chính kinh tế đối ngoại thuận
lợi, tiên tiến, phù hợp với quốc té là nhân tố cực kỳ quan trọng trong việc thu
hút đối tác về phía mình. Do vậy, một trong các chức năng hàng đầu của Nhà nước
là xây dựng nền hành chính kinh tế đối ngoại hiện đại, mang tính quốc tế hoá.
Những nét đặc trưng của một nền hành
chính hiện đại cần có là: quản lý “một cửa, một dấu”, quản lý trọn gói, liên tục,
tin học hoá, tự động hoá. Nền hành chính kinh tế đối ngoại hiện đại phải tránh
được sự chồng chéo, phiền hà, đùn đẩy trong các thủ tục hành chính.
- Tạo bầu không khí hiêu biết lẫn
nhau giữa các quốc gia trên cơ sở xây dựng hệ thống tư duy mới về kinh tế đối
ngoại
Tư duy mới đòi hỏi phải:
+ có nhận thức đúng đắn về thực tiễn
quốc gia và quốc tế, nhìn thấy và phản ánh đúng sự thật, đồng thời phải thích ứng
với xu thế thời đại;
+ nhận biết đầu đủ về xu thế biến động,
vận động của nền kinh tế thế giới, không tách mình ra khỏi thông lệ quốc tế,
tránh các thủ tục, quy định rườm rà, phức tạp, kém văn minh;
+ phải có tư duy mới về an ninh trong
điều kiện thế giới đang diễn ra quan hệ đa phương, từ hai cực sang đa cực. An
ninh của các quốc gia có sự phụ thuộc lẫn nhau;
+ trong tư duy kinh tế phải giải quyết
hợp lý các vấn đề có liên quan đến lịch sử, phải lấy lợi ích cơ bản, lâu dài của
dân tộc làm mục đích.
- Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh
cho kinh tế quốc tế hội nhập, không có những hạn chế và tiêu cực xã hội
Khắc phục tệ tham nhũng, đoạn tuyệt với
lối làm việc quan liêu, lề mề, trùng lặp nhiều khâu; không thống nhất giữa lời
nói và việc làm; khắc phục sự yếu kém của pháp luật.
Khống chế lạm phát ở mức cho phép, ổn
định nền tài chính và sức mua của đồng tiền. Cải tiến cơ chế hoạt động xuất nhập
khẩu theo hướng khai thác thuận lợi mọi tiềm lực của đất nước.
- Nhà nước tạo điều kiện vật chất kỹ
thuật cho kinh tế đối ngoại, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
Cơ sở hạ tầng tốt là tiền đề để phát
triển kinh tế đối ngoại nói riêng, phát triển kinh tế đất nước nói chung.
Điện, nước, giao thông vận tải, thông
tin liên lạc, y tế, giáo dục, văn hoá, ngân hàng. phải trở thành một chỉnh thể.
Đặc biệt cần đầu tư có trọng điểm trong xây dựng sân bay, bến cảng, cơ sở hạ tầng
các khu công nghiệp, các tuyến giao thông quốc gia.
- Đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ
thuật và công nhân kỹ thuật
Cần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý,
cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật với cơ cấu thích hợp, có đủ năng lực để
đáp ứng yêu cầu phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Thực hiện chiến lược phát triển con
người, nâng cao yếu tố trí tuệ, xác định rõ vai trò của chất xám trong phát triển.
Tiêu chuẩn hoá cán bộ và công nhân
theo yêu cầu và nhiệm vụ mới của hoạt động kinh tế đối ngoại.
1.6. Phạm vi quản lý
Nhà nước về kinh tế đối ngoại
1.6.1. Trong lĩnh vực
ngoại thương
Trong lĩnh vực này, Nhà nước cần quản lý các mặt sau:
- Nhà nước quản lý nội dung hàng hoá
xuất khẩu; quyết định chủng loại, số lượng, chất lượng hàng hoá nhập khẩu;
- Nhà nước quản lý việc chọn đối tác
giao dịch thương mại. Nói cách khác, đó là vấn đề quan hệ với ai, mua bán cái
gì, mua bán với ai;
- Nhà nước quan tâm đến lợi ích của
chính mình qua các hoạt động ngoại thương. Tức là Nhà nước quan tâm đến việc
mình được gì qua hoạt động ngoại thương của công dân. Đó chính là ảnh hưởng của
hoạt động ngoại thương đến nền kinh tế quốc dân, đến sự phát triển xã hội nói
chung, đến nguồn thu ngân sách nói riêng.
1.6.2. Trong lĩnh vực đầu
tư nước ngoài, hợp tác và chuyển giao khoa học - công nghệ
Trong lĩnh vực này, Nhà nước quản lý các mặt sau:
- Phương hướng đầu tư nước ngoài và hợp
tác quốc tế về khoa học và chuyển giao công nghệ; định hướng cho các doanh nghiệp,
các tổ chức hoạt động khoa học công nghệ trong và ngoài nước đầu tư hoặc chuyển
giao khoa hoc công nghệ vào những ngành nghề, địa bàn có lợi cho đất nước;
- Nhà nước quan tâm đến chất lượng đối
tác đầu tư và chuyển giao khoa học công nghệ cho nước mình. Vấn đề này cũng được
đặt ra nhưng trong quan hệ ngoại thương;
- Trình độ tiên tiến của khoa học
công nghệ được chuyển giao;
- Các ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng đến
văn hoá, xã hội phát sinh từ sự hiện diện của kinh tế đối ngoại trên nước mình;
các tác hại có thể xảy ra trong hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài về mặt
lao động, tài nguyên, môi trường, an ninh, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
1.7. Nội dung quản lý
nhà nước về kinh tế đối ngoại
1.7.1. Xây dựng chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch để phát triển các hình thức kinh tế đối ngoại
Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch là những
định hướng cơ sở để Nhà nước cũng như các doanh nghiệp, cá nhân thực hiện công
việc của mình. Nguyên tắc chung là phải phù hợp, không phá vỡ hoặc đi ngược lại
với quy hoạch, kế hoạch.
- Trong lĩnh vực ngoại thương: Nhà nước
ban hành danh mục hàng hoá ưu tiên xuất nhập khẩu; quy hoạch, kế hoạch phát triển
các ngành nghề xuất khẩu như quy hoạch ngành thuỷ sản, chiến lược phát triển
ngành sản xuất và chế biến chè.;
- Trong lĩnh vực đầu tư: quy định về
tổ chức lập, trình, duyệt các quy hoạch theo quy định của pháp luật về quy hoạch.
Dự án đầu tư phải tuân thủ quy hoạch kết cấu hạ tầng kỹ thuật, quy hoạch sử dụng
đất, quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng khoáng sản.. Quy hoạch vùng, quy hoạch
ngành, quy hoạch sản phẩm phải phù hợp với lĩnh vực ưu đãi đầu tư, địa bàn ưu
đãi đầu tư, lĩnh vực đầu tư có điều kiện và lĩnh vực cấm đầu tư;
- Xây dựng chiến lược phát triển khoa
học công nghệ
Nhà nước mở rộng giao lưu và hợp tác
quốc tế về khoa học công nghệ; tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân trong nước
hợp tác về khoa học công nghệ đối với cá tổ chức cá
nhân quốc tế, và ngược lại; tranh thủ
sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế theo nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền quốc gia, bình đẳng và cùng có lợi.
Nhà nước có chính sách thu hút trí trức
là người Việt ở nước ngoài, các chuyên gia giỏi của thế giới tham gia phát triển
khoa học công nghệ cho Việt Nam.
1.7.2. Xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật
Pháp luật phải đông bộ và nhất quán,
ít thay đổi, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế nhằm tạo hành lang pháp
lý rõ ràng cho các hoạt động kinh tế đối ngoại. Pháp luật phải được thực thi một
cách nghiêm túc. Cán bộ công chức thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế
đối ngoại phải căn cứ vào pháp luật, không gây trở ngại cho hoạt động kinh tế đối
ngoại.
1.7.3. Nhà nước sử dụng
các chính sách hỗ trợ cho các hình thức kinh tế đối ngoại
1.7.4. Quản lý nhà nước
đối với xuất nhập khẩu
1.7.5. Quản lý nhà nước
đối với đầu tư nước ngoài
1.7.6. Nhà nước tuyên
truyền, phổ biến kiến thức và cung cấp thông tin, giúp đỡ các doanh nghiệp tiếp
cận với thị trường nước ngoài
Nhà nước cần đầu tư xây dựng hệ thống
thông tin hiện đại; đảm bảo thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời cập nhật các
thông tin quan trọng trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại trong nước và thế giới
cho doanh nghiệp và cá nhân.
1.7.7. Kiểm tra, thanh
tra, giải quyết khiếu nại tố cáo, xử lý vi phạm trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại
1.7.8. Đào tạo nguồn
nhân lực, bồi dưỡng cán bộ công chức hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
1.7.9. Bảo đảm ổn định
chính trị và chính sách kinh tế; xây dựng cơ sở hạ tầng, văn hoá, xã hội, giáo
dục, ý tế... phù hợp với phát triển kinh tế đối ngoại
1.8. Những quan điểm cơ
bản của Đảng về phát triển kinh tế đối ngoại
Từ năm 1986, đất nước ta bước vào thời
kỳ đổi mới. Qua các kỳ đại hội Đảng, quan điểm chủ đạo của chính sách kinh tế đối
ngoại đã được Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt
Nam muốn là bạn của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc
lập và phát triển. Hợp tác nhiều mặt, song phương, đa phương với các nước, các
tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng,
cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp bằng thương lượng”.
Từ tổng thể quan điểm chủ đạo nói trên, có thể nêu thành những
quan điểm cụ thể sau:
1.8.1. Phát triển kinh
tế đối ngoại là một tất yếu khách quan của đất nước nhằm phát triển kinh tế, xã
hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Ngày nay, quá trình liên kết kinh tế,
toàn cầu hoá, khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ. Kinh tế đối ngoại là vấn đề sống
còn và trở thành xu hướng tất yếu của các quốc gia.
Nước ta là một nước còn nghèo, kém
phát triển, nông nghiệp lạc hậu, cơ sở trang thiết bị kỹ thuật và kết cấu hạ tầng
con thấp, nhiều tiềm năng dồi dào chưa được khai thác hiệu quả. Muốn đảm bảo thắng
lợi công cuộc xây dựng đất nước theo đường lối xã hội chủ nghĩa không thể không
có ngoại thương, hợp tác khoa học công nghệ, đầu tư nước ngoài và các dịch vụ
thu ngoại tệ, nhằm khai thác thế mạnh, bù đắp điểm yếu. Đây không chỉ là yếu tố
khách quan mà còn là yêu cầu cấp bách.
Đại hội Đảng X cũng nêu rõ: “Hội nhập
kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan; phải chủ động, có lộ trình phù hợp với
bước đi tích cực, vững chắc, không do dự chần chừ; nhưng cũng không được nóng vội,
giản đơn”.
1.8.2. Xử lý đúng đắn mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị, bảo đảm độc lập, bình đăng, cùng có lợi
Khi hội nhập kinh tế thế giới cần giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Mở cửa nhưng phải giữ được
độc lập, chủ quyền, phải bình đẳng, cùng có lợi. Phải thấy được những mặt tích
cực và tiêu cực trong chính sách mở cửa để điều tiết, phát huy những mặt tích cực
và hạn chế những mặt tiêu cực.
Khi đưa ra bài học về hội nhập kinh tế
quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, Đại hội Đảng X đã chỉ rõ:
“Trong tiến trình mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới, phải biết phát huy
lợi thế so sánh, tạo môi trường cạnh tranh để phát triển. Đồng thời, để phát
triển bền vững, bảo đảm sự ổn định, tăng khả năng độc lập tự chủ của đất nước,
nhất thiết phải tăng cường tiềm lực và bảo đảm an ninh kinh tế, đi đôi với củng
cố quốc phòng, an ninh. Về an ninh kinh tế, phải giữ vững các cân đối vĩ mô;
ngoài an ninh lương thực và an ninh năng lượng, cần tăng nhanh dự trữ ngoại tệ,
kiểm soát chặt chẽ nợ nước ngoài; phát huy cao nhất các nguồn lực để xây dựng kết
cấu hạ tầng và phát triển có hiệu quả một số ngành và sản phẩm quan trọng, thiết
yếu đối với nền kinh tế và đời sống xã hội”.
Lợi ích dân tộc cần phải được xem xét gồm cả lợi ích kinh tế
và lợi ích chính trị, lợi ích trước mắt cũng như lợi ích lâu dài.
1.8.3. Phát huy nội lực
kết hợp với sức mạnh thời đại, tận lực khai thác lợi thế của đất nước để chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế
Nguyên tắc này đòi hỏi phải giành lợi
thế khi thực hiện sự phân công lao động quốc tế. Chỉ có như vậy mới vừa hội nhập,
vừa độc lập. Với những lợi thế của nước ta về nguồn nhân lực dồi dào, tài
nguyên thiên nhiên phong phú và vị trí địa lý thuận lợi, nếu chúng ta vận dụng
tốt lợi thế so sánh đó thì sẽ nhanh chóng phát triển kinh tế đối ngoại, đưa đất
nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu.
1.8.4. Đa phương hoá,
đa dạng hoá hoạt động kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi
phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Đa phương hoá quan hệ kinh tế đối
ngoại: là quan hệ với nhiều đối tác trong nhiều lĩnh vực, trong nhiều hoạt động
hoặc cùng một hoạt động kinh tế đối ngoại. Hiện nay chúng ta đã có quan hệ với
nhiều quốc gia có chế độ chính trị khác nhau, có thế mạnh kinh tế khác nhau nằm
ở nhiều châu lục khác nhau.
Đại hội Đảng X cũng nêu ra việc cần tạo
bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại. Để làm
được điều đó, phải tích cực mở rộng thị trường bên ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu,
đồng thời phải chủ động mở cửa thị trường trong nước, kể cả thị trường dịch vụ,
để thu hút mạnh vốn đầu tư, công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến. từ bên
ngoài, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đối
ngoại: là việc mở rộng nội dung, tăng thêm nhiều hình thức kinh tế đối ngoại, từ
chỗ chỉ đơn thuần là xuất nhập khẩu hàng hoá đến chỗ có cả các hoạt động xuất
nhập khẩu tư bản, hợp tác về khoa học công nghệ, hợp tác quốc tế về lao động, bảo
hiểm, viễn thông. . Trong mỗi hình thức tên lại mở rộng chủng loại cụ thể hơn.
Đa dạng hoá hoạt động kinh tế đối ngoại
là điều mang tính quy luật, mang tính khách quan của quá trình phát triển; phát
huy được nội lực trong nước và khai thác được các cơ hội bên ngoài.
1.8.5. Nâng cao hiệu quả
kinh tế đối ngoại góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước
Trong hoạt động kinh tế đối ngoại - một
lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt đối với kinh tế đất nước - thì vấn đề hiệu
quả rất quan trọng. Với điều kiện kinh tế nước ta còn nghèo nàn, cơ sở vật chất
còn kém như hiện nay thì nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại để rút
ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trên thế giới càng trở nên quan trọng
hơn.
Tính hiệu quả trong hoạt động kinh tế
đối ngoại phải được quan tâm một cách toàn diện và có tầm nhìn xa trong tương lại.
Trên bình diện quốc gia, cần xem xét hiệu quả của kinh tế đối ngoại trên các mặt
sau: góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành, cơ cấu vùng; góp phần vào
tăng trưởng kinh tế, vào tỷ lệ dầu tư; giải quyết việc làm; nâng cao đời sống
xã hội.. Khi nâng cao hiệu quả của một hình thức kinh tế đối ngoại sẽ có ảnh hưởng
tích cực đến các hình thức khác. Vì thế, nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại phải
chú ý đến từng lĩnh vực cụ thể, đồng thời cũng phải đặt trong mối quan hệ với
các lĩnh vực khác.
1.8.6. Đổi mới toàn diện
và triệt để về quản lý nhà nước đối với kinh tế đối ngoại theo các nguyên tắc
chung của quản lý nhà nước về kinh tế với tinh thần ưu tiên đổi mới quản lý nhà
nước đối với kinh tế đối ngoại, tạo sự thuận lợi tối đa cho mở cửa, thu hút tối
đa ngoại lực
Trước đây, cơ chế quản lý kinh tế đối
ngoại của nước ta theo kiểu kế hoạch tập trung bao cấp. Cơ chế đó tồn tại trong
thời gian dài và tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế đất nước. Từ năm
1986, sau Đại hội Đảng lần thứ VI, nhất là từ năm 1991, đất nước ta bước vào thời
kỳ đổi mới chuyển sang cơ chế thị trường thì cơ chế quản lý cũ không còn phù hợp.
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đối
ngoại phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa là điều quan trọng, phù
hợp với điều kiện trong nước và quốc tế.
No comments:
Post a Comment